Silananda - Tứ niệm xứ
Hòa thượng
Silananda giảng
Tỳ kheo Khánh Hỷ soạn dịch
Tỳ kheo Khánh Hỷ soạn dịch
Này các thầy tỳ khưu...
Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh Ðạo và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Tứ Niệm Xứ (bốn cách quán sát).
Bốn cách quán sát đó là gì?
Này các thầy tỳ khưu, ở đây (theo lời dạy này). Tỳ khưu quán sát thân trong thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại bỏ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong thân).
Tỳ khưu quán sát thọ trong thọ, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong thọ).
Tỳ khưu quán sát tâm trong tâm, tinh cần tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong tâm).
Tỳ khưu quán sát pháp trong pháp, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong pháp).
-ooOoo-
Hôm nay tôi sẽ giải thích tóm lược cho
các bạn về Kinh Ðại Niệm Xứ. Các bạn đã thực
hành Thiền Minh Sát nhiều năm nên cần phải hiểu rõ
Kinh Ðại Niệm Xứ. Ðể các bạn hiểu rõ Kinh Ðại
Niệm Xứ nên mỗi buổi sáng trong các khóa thiền minh sát
tôi thường cho các bạn đọc lại đoạn tóm lược về
Kinh Ðại Niệm Xứ trên. Ðây là một đoạn kinh
được trích từ Kinh Ðại Niệm Xứ. Mặc dầu đây
chỉ là đoạn tóm lược Kinh Ðại Niệm Xứ, nhưng đoạn
kinh này rất quan trọng đối với các thiền sinh hành
Thiền Minh Sát. Có hiểu rõ ràng, chính xác Kinh Ðại
Niệm Xứ thiền sinh mới có thể hành thiền đúng đắn
và có kết quả tốt đẹp. Nếu không hiểu rõ Kinh
Ðại Niệm Xứ, thiền sinh sẽ không biết cách hành
thiền, do đó sẽ hành thiền sai lạc và không đạt kết
quả.
Chúng ta đã biết phương pháp hành Thiền
Minh Sát hay Thiền Tứ Niệm Xứ là phương pháp hành thiền
do chính Ðức Phật khám phá ra. Ðức Phật đã tự
mình thực hành Tứ Niệm Xứ, và sau khi đạt được kết
quả tốt đẹp, Ngài đã đem phương pháp này ra dạy dỗ
trong suốt bốn mươi lăm năm. Trong suốt bốn mươi
lăm năm này Ðức Phật đã giảng giải Kinh Ðại Niệm
Xứ nhiều lần. Sau khi Ðức Phật niết bàn, phương
pháp hành Thiền Minh Sát đã được chư tăng đọc tụng
lại và sau đó đã được ghi lại bằng chữ viết và
xếp vào Tạng Kinh. Những người hành Thiền Minh
Sát một cách nghiêm túc phải dựa trên căn bản của
đoạn kinh này hay dựa trên toàn thể Kinh Ðại Niệm Xứ
để thực hành.
Ðọan kinh trên được trích từ Kinh Ðại
Niệm Xứ. Tiếng Pàli gọi tên bài kinh này là Maha
Satipatthana Sutta (Ðại Niệm Xứ), có nghĩa là:"Bài
pháp bàn về căn bản của sự chánh niệm"
hay"Bài pháp bàn về sự thiết lập chánh
niệm". Trong bài kinh Maha Satipatthana Sutta
(Ðại Niệm Xứ) này, Ðức Phật dạy cách thực hành
Thiền Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát. Theo lời dạy
trong kinh, có bốn căn bản, hay bốn lãnh vực, hoặc bốn
nơi để thiết lập chánh niệm. Chữ sati được
định nghĩa và giải thích trong chú giải có nghĩa là:
Chánh niệm được thiết lập một cách vững chắc.
Chánh niệm mạnh mẽ đi vào đối tượng, bao trùm đối
tượng và thiết lập trên đối tượng một cách vững
chắc. Ðặc tính của chánh niệm là không hời hợt,
trôi nổi trên bề mặt mà phải chìm sâu vào đối tượng.
Chú giải giải thích là chánh niệm không phải chỉ hời
hợt trên bề mặt như một vật nhẹ nổi trên mặt nước
mà phải chìm sâu vào đối tượng như một viên sỏi
chìm sâu trong nước. Khi thực tập Thiền Minh Sát,
chúng ta phải thiết lập chánh niệm vững chắc trên đề
mục chánh hay trên đề mục nổi bật trong hiện tại.
Ta hãy xét từng câu của đoạn kinh này:
Ý nghĩa chữ Bhikkhu (tỳ khưu)
Ðức Phật thường gọi các tu sĩ là
Bhikkhu (tỳ khưu). Bhikkhu. Bhikkhu có
nhiều nghĩa trong đó có một nghĩa là khất sĩ, là những
người xin ăn. Nhưng xin ăn ở đây không có nghĩa
như xin ăn thông thường. Lúc đi khất thực thầy
tỳ khưu đứng trước nhà thí chủ và không hỏi xin gì
cả. Người thí chủ có tâm thành tự nguyện đem
thực phẩm cúng dường cho vị khất sĩ để tạo duyên
lớnh. Như vậy Bhikkhu là vị khất sĩ cao
thượng hay vị khất sĩ thánh thiện chứ không phải là
người xin ăn thông thường. Chữ Tỳ khưu còn có
nghĩa là những người thấy rõ hiểm nguy trong sanh tử
luân hồi. Căn cứ trên định nghĩa này thì không
phải chỉ có nhà sư mới được gọi là Tỳ Khưu mà bất
kỳ người cư sĩ nào thấy rõ hiểm nguy của sanh tử
luân hồi đều được gọi là Tỳ khưu. Bởi vậy,
trong khi giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ tôi thường dùng
chữ Tỳ khưu mà không dùng chữ Nhà Sư; bởi vì nếu tôi
dùng chữ Nhà Sư để dịch chữ Bhikkhu thì một số
người sẽ nghĩ rằng kinh này chỉ dành riêng cho Nhà Sư
mà thôi. Tại sao Ðức Phật thường dùng chữ
Bhikkhu trong các bài giảng của Ngài? Bởi vì Ðức
Phật sống trong tu viện với các Thầy Tỳ Khưu nên mỗi
khi dạy đạo, Ngài gọi các thầy là Bhikkhu.
Dĩ nhiên lúc Ngài dạy đạo, trong chùa cũng có một số
cư sĩ, nhưng phần lớn vẫn là các Tỳ Khưu tu tập dưới
sự hướng dẫn của Ngài. Ðó là lý do tại sao Ðức
Phật thường dùng chữ Bhikkhu. Có lúc
Ðức Phật cũng dùng chữ Bhikkhave.
Kinh Ðại Niệm Xứ được thuyết tại xứ
Kuru, một xứ gần New Delhi, Ấn Ðộ ngày nay. Lúc
kinh được thuyết ra, có rất nhiều cư sĩ nghe và hành
theo. Theo chú giải thì dân chúng trong Xứ Kuru tinh
tấn thực hành Tứ Niệm Xứ. Khi gặp nhau họ
thường hỏi: Trong bốn pháp chánh niệm của Tứ Niệm
Xứ, bạn thực hành pháp nào? Nếu người được
hỏi trả lời không, thì dân xứ đó sẽ khiển trách và
bắt đầu dạy họ cách hành thiền. Nhưng nếu họ
trả lời rằng họ đã quán sát thân, quán sát thọ...
như thế này, thế này... thì họ sẽ được mọi người
khen ngợi: "Lành thay! Lành thay! Ðời sống bạn
thật nhiều phúc lạc, thật giá trị. Bạn đã sử
dụng tốt đẹp kiếp sống làm người của mình.
Chính vì những người như bạn mà Ðức Phật đã xuất
hiện trên thế gian này". Như vậy, khi dùng chữ
Bhikkhu không có nghĩa là Ðức Phật không nói đến
những người không phải là tu sĩ. Bất kỳ ai chấp
nhận và thực hành những lời dạy của Ðức Phật đều
được gọi là Bhikkhu. Bởi vậy, khi Ðức
Phật nói: "Này các thầy tỳ khưu" thì phải được
hiểu là cả tăng, ni và người tại gia cư sĩ đều được
nói đến.
Ðây là con đường duy nhất
Chữ "Ðây" ở đây là Thiền
Minh Sát hay Tứ Niệm Xứ. Như vậy câu này được
hiểu là: Thiền Minh Sát là con đường duy nhất...
Muốn hiểu rõ câu này bạn phải hiểu
danh từ Pàli về chữ "Con đường duy nhất".
Tiếng Pàli gọi con đường duy nhất là "ekàyàna".
Eka có nghĩa là một, và ayàna có nghĩa là con
đường. Vậy ekàyana có nghĩa là một con
đường. Chữ "ekà-yana" được giải
nghĩa theo năm cách.
- Nghĩa đầu tiên là: Ðây là con đường "đơn độc'' không có ngã rẽ. Vì không có ngã rẽ nên khi đi trên con đường này bạn được bảo đảm từ lúc bắt đầu cho đến lúc giải thoát.
- Nghĩa thứ hai là: Phải đi "một mình'' trên con đường này. Trong lúc hành thiền bạn phải thực hiện hành trình một cách đơn độc, không người đồng hành. Bạn có thể ở trong nhóm, bạn có thể ở trong một khóa thiền tập, nhưng thật sự bạn đi trên con đường riêng của mình. Bạn đơn độc. Không ai đi chung với bạn. Không ai có thể ban tặng cho bạn sự định tâm và trí tuệ của họ, và bạn cũng không thể tặng sự định tâm và trí tuệ của bạn cho ai được cả. Bởi vậy, mặc dầu bạn có thể ở chung nhóm, nhưng thật ra bạn đang hành thiền một mình. Do đó, đây là con đường "duy nhất", "con đường bạn phải đi một mình".
- Nghĩa thứ ba: "Ðây là con đường của một Ðấng". "Con đường của một Ðấng" có nghĩa là "con đường của Ðấng Cao Thượng". Ðức Phật là người cao thượng nhất trong tất cả chúng sanh nên tôn xưng Ngài là một Ðấng. Ðây là con đường do Ðức Phật khám phá và dạy dỗ cho chúng sanh. Ðức Phật là chúng sanh đầu tiên tìm ra con đường này. Bởi thế được gọi: "Ðây là con đường của một Ðấng".
- Nghĩa thứ tư: "Ðây là con đường duy nhất" vì con đường này chỉ dẫn đến một mục tiêu duy nhất, (đó là Niết Bàn); bởi thế khi đi trên con đường này chắc chắn bạn sẽ đạt đến mục tiêu. Niết Bàn là mục tiêu duy nhất mà bạn đạt đến khi bạn đi trên con đường này.
- Nghĩa thứ năm: "Ðây là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn", con đường duy nhất để thanh lọc tâm chúng sanh, không có con đường nào khác. Satipat-thàna hay con đường chánh niệm là con đường duy nhất đưa đến Niết Bàn, chấm dứt đau khổ, hủy diệt mọi phiền não.
Về con đường duy nhất, có một vấn đề
được nêu ra ở đây:
Khi nói "Ðây là con đường duy nhất"
thì chữ "duy nhất" hay "chỉ có một" ở
đây là để chỉ cho Thiền Minh Sát hay Tứ Niệm Xứ có
nghĩa là Chánh Niệm là con đường duy nhất. Nhưng
Chánh Niệm là một yếu tố của Bát Chánh Ðạo. Phải
chăng những yếu tố khác trong Bát Chánh Ðạo không phải
là con đường để thanh lọc tâm chúng sanh hay sao?
Câu trả lời là: Những yếu tố khác của Bát Chánh Ðạo
cũng là những yếu tố trong con đường để thanh lọc
tâm chúng sanh, nhưng con đường này không thể thiếu vắng
chánh niệm. Khi chánh niệm được đề cập đến
thì những yếu tố kia cũng được đề cập đến.
Như vậy, dầu cho một mình chánh niệm được nói đến
nhưng ta phải hiểu rằng: một khi nói đến chánh niệm
thì bảy yếu tố kia của Bát Chánh Ðạo cũng bao gồm
trong đó rồi.
Chánh niệm là con đường duy nhất để
đạt Niết Bàn, nhưng chánh niệm được thực hành qua
nhiều cách khác nhau, có thể niệm thân, niệm thọ, niệm
tâm, niệm pháp hay niệm từng phần của cơ thể v.v...
Kinh Ðại Niệm Xứ nói đến hai mươi mốt cách thực
hành khác nhau để chúng ta lựa chọn. Như vậy, tôi
nghĩ rằng khi nói: "Ðây là con đường duy nhất"
quả không sai.
Chánh niệm ví như một người lính gác.
Nếu không có lính gác, ai cũng có thể đi vào cổng một
cách tự do, không kiểm soát được. Như vậy, bao
lâu chánh niệm còn kiểm soát, ngăn giữ các giác quan thì
tâm chúng ta còn trong sáng. Bởi vì chánh niệm đang
ở ngay các cửa giác quan để canh gác nên không một tâm
sở bất thiện nào có thể đi vào tâm chúng ta. Khi
chánh niệm không còn canh giữ các giác quan, chánh niệm
đã dời đi nơi khác hay chúng ta mất chánh niệm thì mọi
phiền não sẽ đi vào. Như vậy, chánh niệm là con
đường duy nhất giữ cho tâm trong sạch.
Người ta thường tranh luận với nhau về
chữ Pàli "ekayano" (một con đường).
Nhưng trong kinh Pháp Cú, Ðức Phật nói rất rõ ràng rằng:
"Ðây là con đường duy nhất và không có con đường
nào khác để thanh lọc chúng sanh." Như vậy,
chúng ta không thể cho rằng Ðức Phật đã nói còn có
một con đường khác. Ðức Phật đã nhấn mạnh:
"Ðây là con đường duy nhất" bởi vậy, tôi nghĩ
chúng ta phải chấp nhận rằng chỉ có một con đường
duy nhất để thanh lọc chúng sanh mà thôi. Nếu lấy
sự thực tập để minh chứng, chắc chắn chúng ta sẽ
thấy rõ ràng hơn. Khi bạn cố gắng tích cực hành
thiền bạn sẽ thấy rõ ràng chánh niệm là con đường
duy nhất. Cần ghi nhận một điều ở đây: Chánh
niệm là yếu tố chủ yếu trong Bát Chánh Ðạo, con đường
dẫn đến nơi thoát khổ. Khi Ðức Phật nói trong
kinh pháp cú: Bát Chánh Ðạo là con đường duy nhất, thì
cũng có nghĩa: Chánh niệm là con đường duy nhất vậy.
Ðây là con đường duy nhất để
thanh lọc chúng sanh
Nghĩa là để thanh lọc "tâm"
chúng sanh. Tâm của tất cả chúng sanh bị ô nhiễm
bởi nhiều loại phiền não. Tâm chúng ta hầu như
không lúc nào trong sạch, luôn luôn bị tham lam, sân hận,
si mê, kiêu mạn chế ngự. Các loại phiền não này
làm ô nhiễm tâm ta. Thiền Minh Sát giúp chúng ta
thanh lọc tâm. Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc
tâm mọi chúng sanh. Trong khi bạn thực hành Thiền
Minh Sát thì các phiền não như tham lam, sân hận, si mê,
kiêu mạn vv... tạm thời vắng bóng. Khi bạn đạt
đến cứu cánh Niết bàn thì tâm bạn hoàn toàn thoát ly
khỏi mọi phiền não. Ði trên đường này chúng ta
sẽ đạt đến tầng mức giác ngộ cao nhất và tâm sẽ
hoàn toàn trong sạch.
Thanh lọc ở đây là thanh lọc tâm
chúng sanh, bởi vì Ðức Phật quan tâm đến việc thanh
lọc tâm hơn là cơ thể vật chất. Ðiều này không
có nghĩa là Ðức Phật bảo chúng ta không nên chú trọng
đến thân thể, không giữ cho thân thể sạch sẽ, nhưng
điều quan trọng mà Ðức Phật muốn nói đến là giữ
tâm trong sạch. Bởi vậy thanh lọc chúng sanh ở đây
có nghĩa là thanh lọc tâm chúng sanh. Trong chú giải
Ðức Phật dạy chúng ta phải giữ gìn sạch sẽ vì sạch
sẽ giúp cho chánh niệm và trí tuệ phát triển: Sạch sẽ
gồm có sạch sẽ bên trong và sạch sẽ bên ngoài.
Sạch sẽ bên trong là giữ gìn cơ thể sạch sẽ.
Sạch sẽ bên ngoài là giữ gìn y phục, đồ đạc, nơi
ăn chốn ở sạch sẽ. Bởi vì sạch sẽ giúp cho
chánh niệm và trí tuệ phát triển nên chúng ta cần giữ
cơ thể và nơi hành thiền sạch sẽ. Sạch sẽ là
yếu tố cần thiết trong việc vun bồi, phát triển định
và huệ. Mặc dầu chúng ta không chểnh mảng trong
việc giữ gìn cơ thể sạch sẽ. Nhưng, như thế
chưa đủ, chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc
giữ gìn tâm trong sạch. Bởi thế, Ðức Phật ốói
chánh niệm là con đường duy nhất để thanh lọc tâm
chúng sanh.
Ðây là con đường duy nhất để
chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc
Muốn chấm dứt lo âu phiền muộn, uất
ức than khóc chúng ta phải thực hành chánh niệm.
Lo âu phiền muộn là một tâm sở, uất ức than khóc là:
'vừa phiền muộn vừa khóc ra tiếng và vừa than thở'.
Ðể chế ngự lo âu phiền muộn chúng ta phải thực hành
Thiền Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát bạn phải
nhận biết mọi chuyện xảy ra nơi bạn. Bạn phải
ghi nhận mỗi một chuyện đến với bạn trong giây phút
hiện tại. Khi bạn nhận biết mọi chuyện, khi bạn
quán sát mọi chuyện trong lúc hành thiền thì phiền não
không thể sanh khởi. Khi đạt đến tầng mức cuối
cùng là A La Hán thì mọi lo âu phiền muộn, uất ức than
khóc của bạn đều bị tận diệt. Rất nhiều
người nhờ hành Thiền Minh Sát mà lo âu phiền muộn, uất
ức than khóc được chế ngự.
Ðây là con đường duy nhất để
diệt khổ thân và khổ tâm
Khổ thân ở đây là sự đau nhức trong
cơ thể, những sự khó chịu trong thân, và khổ tâm là
tâm đau khổ, xuống tinh thần, thất vọng, giận dữ,
ghét bỏ v.v... Khi ngồi thiền một thời gian lâu bạn cảm
thấy đau nhức. Lúc đầu có thể bạn không chế
ngự được đau nhức, nhưng nếu bạn kiên nhẫn quán sát
hay ghi nhận sự đau, và khi tâm định của bạn mạnh mẽ
thì đau nhức sẽ biến mất và bạn chế ngự được cơn
đau. Có thể sự đau nhức kéo dài nhưng nhờ chánh
niệm bạn có thể sống với cơn đau và chấp nhận sự
đau nhức. Như Ðại Ðức Anuruddha nói: "Khi bạn
có thể sống với sự đau nhức, chấp nhận đau nhức
thì tâm của bạn sẽ không bị quấy nhiểu, loạn động.
Một khi tâm bạn không còn bị quấy nhiểu bởi sự đau
nhức của cơ thể thì có thể nói đau nhức không còn
nữa." Như vậy, muốn loại trừ hay chế ngự
khổ thân chúng ta phải hành Thiền Minh Sát. Bạn
cũng có thể chế ngự được khổ tâm: xuống tinh thần,
thất vọng, giận dữ, ghét bỏ v.v... nhờ hành Thiền
Minh Sát. Và khi việc hành thiền của bạn tiến
triển, tâm bạn đạt đến tầng mức cao nhất thì khổ
thân và khổ tâm sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Khổ tâm là một tâm sở, lo âu phiền
muộn cũng là một tâm sở. Chúng luôn luôn liên kết
với nhau. Bạn có thể chế ngự, loại trừ hay
tránh xa những tâm sở bất thiện này nhờ hành Thiền
Minh Sát.
Mỗi thời điểm tâm chỉ nhận một đối
tượng. Tâm không thể nhận hai đối tượng cùng
lúc. Tôi nghĩ rằng chúng ta thật may mắn khi tâm
chỉ ghi nhận được một đối tượng. Nếu tâm có
thể nhận hai hay nhiều đối tượng một lúc thì đau khổ
của chúng ta còn lớn hơn nhiều. Nhờ ở chỗ mỗi
thời điểm tâm chỉ ghi nhận một đối tượng nên chúng
ta mới có thể chế ngự khổ tâm và lo âu phiền muộn
bằng cách thực hành Thiền Minh Sát. Lấy sự sân
hận làm thí dụ. Chẳng hạn tôi đang giận ông A. Càng
nghĩ đến ông A thì cơn giận tôi càng gia tăng. Cơn
giận của tôi tăng mãi bởi vì tôi đã lấy ông A làm
đối tượng cho tâm. Nhưng khi tôi đã chuyển tâm
tôi từ sự nghĩ đến ông A, nguồn gốc của sự giận
dữ sang chính sự giận dữ. Nghĩa là thay vì chú
tâm vào ông A, tôi chú tâm vào chính sự giận dữ.
Vào lúc tôi chuyển sự chú tâm vào chính sự giận dữ
thì lúc lấy ông A không còn hiện diện trong tâm tôi nữa.
tng A, đối tượng của sự giận dữ, không còn ở trong
tâm tôi nữa thì sự giận dữ cũng biến mất luôn.
Ðây là phương cách có hiệu quả để điều phục những
tâm sở bất thiện. Phương pháp này có vẻ đơn
giản nhưng rất hiệu quả vì chúng ta đã áp dụng chánh
niệm một cách mạnh mẽ để đối trị với phiền não.
Ðây là phương pháp tốt đẹp giúp chúng ta đương đầu
với các phiền não như tham ái, dính mắc, sân hận, ghét
bỏ, xuống tinh thần, lo âu, phiền muộn v.v... Bất kỳ
tâm sở gì khởi sinh chúg ta cũng có thể điều phục
chúng bằng chánh niệm. khi chánh niệm của ta mạnh
mẽ thì những tâm sở bất thiện trên chắc chắn sẽ
biến mất. Bởi thế Ðức Phật dạy: Ðây là
con đường duy nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh, chấm
dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc.
Ðây là con đường duy nhất để đạt
Thánh Ðạo...
Khi đọc sách về Phật Giáo bạn sẽ gặp
chữ Ðạo nhiều lần. Ðôi lúc chữ Ðạo được
viết bằng chữ thường nhưng phần lớn được viết
bằng chữ Hoa. Ðạo là một từ kỹ thuật để chỉ
cho một nhóm gồm tám yếu tố hay còn gọi là Bát Chánh
Ðạo (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Tám chi
của Bát Chánh Ðạo khởi sinh vào lúc Ðạt Thánh Ðạo
hay Giác Ngộ. Vào lúc Ðạt Thánh Ðạo hay Giác Ngộ,
tám yếu tố của Bát Chánh Ðạo cùng khởi sanh với một
tâm được gọi là "Ðạo Tâm". Chữ Giác
Ngộ là một từ kỹ thuật khó hiểu. Người ta đã dùng
chữ Giác Ngộ một cách tự do, thoải mái, nhưng chỉ một
ít có thể thực sự hiểu được chữ này. Nếu
không có một định nghĩa đúng về chữ Giác Ngộ chúng
ta sẽ hiểu sai lạc ngay. Tùy theo người dùng, tùy
theo tôn giáo chữ Giác Ngộ được hiểu nghĩa khác nhau.
Chữ Giác Ngộ trong Ðạo Phật khác hẵn chữ Giác Ngộ
trong Thiên Chúa Giáo và khác hẵn chữ Giác Ngộ được
dùng trong các đảng phái và học thuyết chính trị v.v...
Nói đến Giác Ngộ, chúng ta cần biết
Giác Ngộ là gì. Theo Phật Giáo, Giác Ngộ có nghĩa
là: "cùng lúc loại trừ phiền não và trực tiếp
thấy rõ Niết Bàn, thấy rõ Niết Bàn như mặt đối mặt
với Niết Bàn." Ðối với một thiền sinh hành
Thiền Minh Sát, khi họ có tiến bộ từ thấp lên cao,
ngày càng đạt được các tuệ giác cao hơn. Nhờ
liên tục tinh tấn hành thiền như vậy, đến một lúc
nào đó, một loại tâm từ trước đến nay chưa từng
có, xuất hiện trong tâm họ. Tâm này, được đi
kèm với một số tâm sở thích hợp, có một cường lực
cực kỳ mạnh mẽ loại trừ tận gốc phiền não, và
phiền não nào đã được loại trừ sẽ không trở lại
nữa, cùng lúc tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng.
Như vậy, Giác Ngộ hay Ðạt Thánh Ðạo là những gì xảy
ra vào thời điểm ấy - vào thời điểm mà tâm này khởi
sinh, loại trừ phiền não và lấy Niết Bàn làm đối
tượng. Tâm này gọi là Ðạo Tâm. Như vậy, để
đạt Thánh Ðạo chỉ có nghĩa đơn giản là Giác Ngộ.
Vào lúc bạn thật sự đạt Thánh Ðạo, bạn Giác Ngộ,
loại trừ phiền não và lấy Niết Bàm làm đối tượng.
Có bốn thánh đạo hay bốn tầng mức giác ngộ, nên cũng
có bốn loại đạo tâm. Mỗi đạo tâm tận diệt
hay làm suy yếu một số phiền não và khi đạt đến đạo
tâm thứ tư thì tất cả mọi phiền não đều bị tận
diệt. Muốn đạt Thánh Ðạo, đạt được loại
tâm có khả năng tận diệt mọi loại phiền não này chỉ
có Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất.
Ðây là con đường duy nhất để
chứng ngộ Niết Bàn.
Chứng Ngộ Niết Bàn hay Ðạt Thánh Ðạo
là một. Chúng ta có thể nói Ðạt Thánh Ðạo nghĩa
là Ðạt Ðạo Tâm và Chứng Ngộ Niết Bàn là Ðạt Ðạo
Quả. Sau Ðạo Tâm thì Quả Tâm đến ngay. Tức khắc
theo sau Ðạo Tâm là hai hay ba sát na của Quả Tâm.
Nếu có sự hiểu biết chút ít về Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma) thì bạn sẽ hiểu rõ ràng về vấn đề
này. Cần phải nói thêm là cả Ðạo Tâm và Quả
Tâm đều lấy Niết Bàn làm đối tượng và "thấy"
Niết Bàn một cách trực tiếp. Cả hai thời điểm
trên đều được gọi là thời điểm Chứng Ngộ Niết
Bàn.
Tóm lại, Ðức Phật đã dạy chúng ta
Chánh Niệm là con đường duy nhất để thanh lọc
(tâm) chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức
than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh Ðạo
và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Tứ
Niệm Xứ (bốn cách quán sát, ).
Con Ðường Ðó là Tứ Niệm Xứ (bốn
nền tảng của Pháp Minh Sát hay Chánh Niệm).
Chúng ta cần tìm hiểu các chữ "nền
tảng" và "chánh niệm". Trước tiên cần
biết thế nào là chánh niệm. Tất cả chúng ta đều
đã hành thiền nhiều năm, nhưng đôi khi có ai hỏi: Thế
nào là chánh niệm chúng ta có thể trả lời không xác
đáng. Chánh niệm hay Minh sát được dịch từ chữ
Pàli "Sati", và bài kinh này được gọi là
"Satipatthàna". Ta có chữ Sati
ở đây. Ta dịch Sati là "Chánh Niệm"
hay "Minh Sát" (chú tâm quán sát một cách rõ ràng,
tinh tường). Khó có thể tìm một chữ nào để
dịch đúng hơn. Theo nguyên ngữ, Sati có nghĩa
là "nhà", nhưng theo nghĩa thông thường thì Sati
có nghĩa rộng hơn và bao trùm hơn chỉ là sự nhà suông.
Chú giải định nghĩa Sati là nhà, nhưng đặc tính
của nó là không hời hợt, có nghĩa là không trôi nổi
trên bề mặt. Nếu đúng là Sati thì nó phải
không hời hợt, bề mặt mà phải đi sâu vào đối tượng.
Bởi vậy, tôi thường hay nhắc nhở các thiền sinh là
hãy "ý thức trọn vẹn đối tượng" hay hãy "ý
thức xuyên suốt đối tượng". Sati có
công năng (hay đem đến kết quả) là không bỏ mất đối
tượng. Bao lâu chúng ta có Sati hay có Minh Sát
thì chúng ta không bỏ mất đối tượng, không quên đối
tượng. Chánh Niệm hay Minh Sát chẳng khác nào một
người gác cửa đang đứng tại cửa kiểm soát người
ra kẻ vào.
"Nền tảng" hay "căn bản"
của Chánh niệm, thực sự có nghĩa là "thiết lập"
hay hay "xây dựng", "thiết lập vững chắc
chánh niệm", "chánh niệm được xây dựng vững
chắc". Chữ Satipatthàna được dịch là
"nền tảng của chánh niệm", "nền tảng của
minh sát", nhưng phải hiểu đó là sự thiết lập
chánh niệm một cách vững chắc, một cách kiên cố.
Trong Kinh Ðại Niệm Xứ này, Ðức Phật nói đến bốn
nền tảng của chánh niệm hay bốn nền tảng của minh
sát. Khi hành Thiền Minh Sát trong một khóa thiền
như thế này, các bạn thực hành tất cả bốn nền tảng.
Nhưng không phải bạn thực tập tuần tự từng căn bản
một như kinh điển đã ghi ra mà tùy theo sự hiện diện
của đề mục, bạn áp dụng một loại nền tảng hay
phương cách chánh niệm thích hợp. Trong thực hành
bạn phải chánh niệm trên đối tượng hiện tại.
Bạn không thể bỏ qua đối tượng hiện tại. Ðối
tượng hiện tại có lúc là Thân, có lúc là Thọ, có lúc
là Tâm và có lúc là Pháp. Ðối tượng nào nổi
bật trong hiện tại thì chú tâm minh sát vào đối tượng
đó. Bạn phải chú tâm chánh niệm vào đề mục
đang hiện diện, đừng lựa chọn. Ðó là lý do tại
sao Thiền Minh Sát còn được gọi là "sự ý thức
không lựa chọn". Ðiều này có nghĩa là khi
hành thiền bạn không đưọc lựa chọn đề mục mà hãy
chú tâm minh sát những gì đang xuất hiện trong hiện tại.
Sau khi cho biết ích lợi của việc hành
Thiền Minh Sát, Ðức Phật chỉ dẫn tóm lược cho chúng
ta cách hành thiền theo bốn căn bản của sự minh sát.
Bốn căn bản đó là gì?
Tỳ khưu quán sát thân trong thân,
tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại bỏ mọi tham ái
và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời (trong thân).
Ðây chỉ là một câu vắn tắt nhưng có
nhiều ý nghĩa.
"Chánh niệm hay quán sát thân trong
thân": Có nghĩa là khi Tỳ Khưu thực hành chánh niệm
quán sát thân thì Tỳ Khưu phải quán sát một cách thật
tinh tế, thật chính xác rõ ràng. Tỳ Khưu quán sát
hay minh sát thân trên thân chứ không quán sát cảm giác
trên thân hoặc quán sát con người trên thân v.v... Ðức
Phật lập lại chữ thân, thọ, tâm, pháp là để nhấn
mạnh rằng khi quán sát đối tượng Tỳ Khưu phải quán
sát một cách tinh tế, chính xác. Khi quán sát thân,
Thầy Tỳ Khưu phải tinh tấn, Thầy Tỳ Khưu phải có ý
thức sáng suốt (tỉnh giác) và Thầy Tỳ Khưu phải chánh
niệm. Tinh tấn được dịch từ chữ "àtàpì".
Thông thường khi một chữ được dịch sang ngôn ngữ
khác thì bị đánh mất một ít ý nghĩa. Nguyên gốc
àtàpi là àtàpà. Àtàpà có nghĩa là
"sức nóng của mặt trời". Sức nóng của
mặt trời có thể làm cho các vật bị nung nóng lên.
Những vật nào bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt sẽ
bị héo úa và có thể bị cháy luôn. Cũng vậy, sự
tinh tấn sẽ nung nóng hay đốt cháy phiền não.
Trong tiếng Pàli, tinh tấn được gọi là àtàpa,
và người có tinh tấn được gọi là àtàpì, chữ
"ì" chỉ cho sự sở hữu, sự có. Như
vậy, một người có àtàpa được gọi là àtàpì.
Khi đọc kinh điển tiếng Pàli, đọc đến chữ
àtàpi thì trong tâm ta sẽ có hình ảnh một ngọn
lửa tinh tấn đang đốt cháy phiền não. Khi dịch
chữ àtàpì hay àtàpa sang nghĩa tinh tấn hay
tinh cần ta đã đánh mất hình ảnh ngọn lửa này.
Như vậy, àtàpì có nghĩa là người có nỗ lực
thật sự, không phải là người thiếu nỗ lực.
Người này đã nỗ lực chánh niệm thật sự, và người
này có ý thức sáng suốt.
Khi Ðức Phật còn là Bồ Tát, Ngài ngồi
dưới cội cây Bồ Ðề và có tâm nguyện thật vững
chắc: "Dầu cho máu cạn, thịt khô, và thân này chỉ
còn da bọc lấy gân xương, ta sẽ không rời khỏi chỗ
này nếu không giác ngộ, ta sẽ nỗ lực tinh tấn cho đến
khi đạt thành chí nguyện." Sự nỗ lực tinh
tấn như thế mới gọi là Chánh Tinh Tấn. Như vậy,
muốn có Chánh Tinh Tấn phải có một ý chí dũng cảm,
quyết tâm thực sự, và sự dũng cảm tinh tấn này là để
thiêu đốt phiền não. Chữ àtàpì bao gồm
tất cả những nỗ lực tinh tấn mà ta đã đề cập đến.
Chánh Tinh Tấn ở đây là Chánh Tinh Tấn trong Bát Chánh
Ðạo. Chánh Tinh Tấn phải trong ý nghĩa nỗ lực
thiêu đốt phiền não, loại trừ những tâm sở bất
thiện bằng cách vun bồi những tâm sở thiện. Các
bạn đã thể hiện nỗ lực tinh tấn bằng cách đến đây
tham dự một khóa thiền dài hạn như thế này.
Nhưng không phải chỉ tham dự khóa thiền là đủ, bạn
phải thực tâm nỗ lực tinh tấn trong suốt khóa thiền.
Chỉ có nỗ lực tinh tấn liên tục, bạn mới có thể
ngăn chặn và loại trừ các tâm sở bất thiện, vun bồi
tâm sở thiện. Trong bài kinh này, Ðức Phật đã
dùng chữ àtàpi để chỉ những vị Tỳ Khưu, tức
là những ai thấy rõ sự khổ trong vòng luân hồi nỗ lực
tinh tấn hành Thiền Minh Sát, và sự nỗ lực tinh tấn
này là để đốt cháy phiền não.
Ý thức sáng suốt hay tỉnh giác
ý thức sáng suốt hay tỉnh giác là thấy
một cách rõ ràng. Bất kỳ đề mục nào Tỳ Khưu
để tâm đến Tỳ Khưu sẽ thấy một cách rõ ràng.
Thấy rõ ràng là thấy xuyên suốt đối tượng, thấy
bằng trí tuệ của mình. Chẳng hạn, khi chú tâm
vào hơi thở, thiền sinh sẽ thấy hơi thở một cách rõ
ràng. Thiền sinh thấy rõ hơi thở vào khác hẵn hơi
thở ra, và hơi thở ra cũng khác hơi thở vào. Thiền
sinh cũng thấy rõ hơi thở khởi sinh và hoại diệt và
lúc bấy giờ chỉ có hơi thở và sự ý thức hơi thở
mà chẳng có cái gì gọi là người, chúng sanh, đàn ông,
đàn bà gì cả. Sự hiểu biết rõ ràng như vậy
gọi là tỉnh giác. Khi có tỉnh giác hay có sự hiểu
biết rõ ràng về một vật nào đó thì bạn sẽ hiểu rõ
mọi khía cạnh của vật đó. Lúc mới đầu hành
thiền, thiền sinh khó giữ tâm trên đối tượng, khi tâm
ở trên đối tượng thiền sinh cũng khó nhận thấy hơi
thở một cách rõ ràng chính xác. Thiền sinh không
thấy thuần hơi thở mà thấy một cái gì pha lẩn, lộn
xộn và mù mịt. Về sau, nhờ định tâm và sự
thực hành phát triển, thiền sinh sẽ thấy đối tượng
ngày một rõ ràng hơn, rồi bạn sẽ thấy sự sinh diệt
của hơi thở v.v... Như vậy, tỉnh giác hay sự thấy biết
rõ ràng không đến ngay từ lúc đầu, nhưng sẽ đến sau
khi bạn đã đạt được một số kinh nghiệm thực hành.
Muốn tỉnh giác hay hiểu biết rõ ràng,
sáng suốt khởi sanh, cần phải có những điều kiện
khác: Ðó là Ðịnh Tâm. Không có Ðịnh Tâm thì sẽ
không có sự thấy biết rõ ràng. Ðịnh tâm là một
tâm sở giữ cho những thành phần của tâm trụ vào đối
tượng, không để chúng tản mạn bên ngoài. Ðịnh
tâm thường được mô tả là trạng thái của tâm có thể
trụ trên đối tượng một thời gian dài. Chẳng
hạn, nếu lấy hơi thở làm đối tượng, thì lúc có
định tâm, tâm sẽ ở trên đối tượng là hơi thở mà
không hướng đến một nơi nào khác. Vào mỗi thời
điểm Tâm Sở Ðịnh đều giữ tâm và những thành phần
của chúng liên kết, hội tụ vào đối tượng.
Ðịnh tâm gom giữ tâm chặc chẽ, không để cho chúng
hướng đi nơi khác. Ðịnh tâm là một điều kiện
cần thiết để Tỉnh Giác hay sự hiểu biết sáng suốt
khởi sinh. Khi định tâm phát triển, tâm không vọng
động, không bị phiền não chi phối, yên tịnh tĩnh lặng,
lúc ấy tâm mới có đủ khả năng, đủ sáng suốt nhìn
thấy chân tưàng của sự vật. Nước cần được
để lắng yên, không cặn bã quấy động ta mới thấy
xuyên suốt được. Cũng vậy, tâm có nhiều phiền
não chi phối, quấy động nên cần được an định, tĩnh
lặng. Bao lâu tâm còn bị phiền não chi phối thì
ta không thể thấy sự vật rõ ràng, chính xác. Khi
chúng ta có định tâm tốt thì phiền não, chướng ngại
được chế ngự. Khi phiền não không khuấy động,
tâm sẽ sáng suốt, và đó là lúc Tỉnh Giác hay ý thức
sáng suốt khởi sinh, và chân tưàng của sự vật sẽ
được phô bày một cách rõ ràng.
Hãy đọc lại đoạn kinh trên: ...
Tỳ khưu quán sát thân trong thân, tinh cần, tỉnh
giác và chánh niệm, loại bỏ mọi tham ái và ưu phiền
(sân hận) trong cõi đời (trong thân).
Trong đoạn kinh trên ta thấy có ba yếu tố
được nói đến là: tinh cần, tỉnh giác và chánh
niệm. Mặc dầu Ðịnh tâm không được
nói đến trong đoạn văn này, nhưng chúng ta phải hiểu
là định tâm đã được bao gồm trong đó. Ðôi khi
trong một câu văn vài chữ có thể bị bỏ sót, nhưng
phải hiểu là chúng đã nằm trong đó rồi. Chẳng
hạn có một người thợ săn theo dõi dấu chân nai để
biết hướng đi của nai; lúc theo dõi đến một tảng đá
phẳng thì không thấy dấu chân nai nữa, vì chân nai không
thể để dấu trên tảng đá phẳng. Nhưng lúc băng
ngang tảng đá, người thợ săn thấy lại dấu chân nai.
Người thợ săn suy ra rằng con nai đã băng ngang qua tảng
đá và tiếp tục đi. Người thợ săn thấy được
dấu chân nai ở đoạn đầu và đoạn cuối nên có thể
suy ra đoạn giữa. Cũng vậy, chánh niệm là đoạn
đầu, tỉnh giác là đoạn cuối, ta suy ra định ở đoạn
giữa. Trong câu văn trên chánh niệm được đặt
sau nhưng thực ra trong khi thực hành thì chánh niệm phải
đặt ngay sau tinh tấn (tinh tấn - chánh niệm - tỉnh giác)
hay (tinh tấn - minh sát - hiểu biết rõ ràng).
Trong câu trên yếu tố định đã bao hàm
trong đó, nên ta có bốn yếu tố căn bản trong việc hành
thiền: 'tinh tấn - chánh niệm - định tâm và tỉnh giác'
hay 'tinh tấn - minh sát - tâm định và hiểu biết rõ
ràng'. Khi hành thiền, bốn yếu tố hay bốn tâm sở
này phải hoạt động một cách hài hòa. Nhưng còn
một tâm sở khác cũng đóng vai trò rất quan trọng trong
việc hành thiền đó là: Ðức Tin. Không có đức
tin chúng ta sẽ không hành thiền. Ðức tin ở đây
không phải là Ðức tin mù quáng mà là sự tin tưởng vào
Ðức Phật và tin vào chân lý, những lời dạy của Ngài.
Chúng ta tin tưởng rằng khi chú tâm vào những đề mục
thân, thọ, tâm, pháp này thì tâm ta sẽ không loạn động,
phiền não sẽ không chi phối. Và một khi tâm đã
an tịnh tĩnh lặng thì ta sẽ thấy rõ bản chất thực sự
của mọi sự vật trên thế gian, đó là Vô thường, Khổ
và Vô ngã. Khi thấy được chân tưàng của sự vật
thì chúng ta sẽ hết khổ. Ðây là một loại Ðức
tin thật sự, một loại tin tưởng căn bản, và những
điều tin tưởng này có thể được minh chứng qua sự
thực hành. Như vậy, chúng ta cần có nhiều đức
tin vì không có đức tin thì không việc gì có thể thành
tựu được. Bởi thế đức tin là một yếu tố
quan trọng trong việc hành thiền. Mặc dầu, trong
lúc hành thiền đức tin không hiển lộ một cách rõ ràng
khiến ta có thể thấy được, nhưng đức tin vẫn tiềm
tàng trong đó và hoạt động một cách hài hòa với những
yếu tố khác. Như vậy, có tất cả năm yếu tố
chủ yếu trong việc hành thiền. Tiếng Pàli
gọi là Indriya, được dịch là năm quyền hay năm
căn (Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Huệ). Các thiền sư
khi dạy thiền thường hay nhắc đến năm yếu tố này.
Năm quyền này cần phải họat động đồng thời và hài
hòa với nhau. Muốn hành thiền một cách tốt đẹp,
chúng ta phải phát triển năm yếu tố này cùng lúc và
hài hòa với nhau. Như chúng ta đã nói, thoạt đầu
mới hành thiền, thiền sinh có thể thiếu ý thức sáng
suốt, nhưng về sau khi định tâm đã được phát triển
thiền sinh sẽ thấy sự vật một cách rõ ràng...
và năm yếu tố này sẽ họat động một cách hài hòa.
Nếu chúng không hoạt động hài hòa thì những gì sẽ
xảy ra? Câu trả lời là chúng ta sẽ thất bại, và
việc hành thiền sẽ không có kết quả tốt. Khi
hành thiền, hai yếu tố tinh tấn và định tâm là hai yếu
tố quan trọng cần được quân bình. Nếu tinh tấn
và định tâm không quân bình, yếu tố này trội hơn yếu
tố kia, việc hành thiền sẽ thất bại. Tinh tấn
phải vừa đủ, không quá nhiều cũng không quá ít.
Ðôi lúc, chúng ta cố gắng hết sức bởi vì chúng ta
muốn đạt được cái gì đó. Vì tham muốn đạt
được cái gì đó nên chúng ta cố gắng nỗ lực, nhưng
vì có quá nhiều nỗ lực nên tâm bị giao động và bất
an. Bị giao động và bất an chi phối thì định tâm
cũng mất luôn. Như vậy, quá nhiều tinh tấn cũng
không tốt. Nhưng nếu ít tinh tấn thì sao? Chúng ta
sẽ bị buồn ngủ và làm biếng chi phối nên cũng không
thể định tâm được. Như vậy, tinh tấn không
được nhiều quá cũng không được ít quá. Cần
nhà một điều về sự tinh tấn và định tâm: khi yếu
tố này quá trội thì yếu tố kia bị giảm sụt.
Có quá nhiều tinh tấn, định tâm bị giảm sụt, nhưng
không có đủ tinh tấn, định tâm cũng bị giảm sụt.
Ðịnh tâm cũng không dược nhiều quá. Khi định tâm quá
nhiều chúng ta trở nên biếng nhác, có khuynh hướng muốn
được nhàn nhã thoải mái nên tinh tấn bị sụt giảm.
Giả sử chúng ta đang hành thiền và định
tâm đang tốt đẹp. Khi định tâm tốt ta không cần
nhiều nỗ lực tinh tấn nhưng tâm vẫn ở trên đề mục.
Do ở chỗ không cần cố gắng nhiều vẫn định tâm dễ
dàng khiến ta có khuynh hướng lơi là tinh tấn. Vì
tinh tấn lơi là nên sức mạnh tinh tấn sụt giảm khiến
tâm ta trở nên trì độn, lười biếng, giải đải dẫn
đến dã dượi, buồn ngủ. Trong trường hợp này
chúng ta cần phải thúc đẩy tinh tấn bằng cách nỗ lực
tinh tấn hơn lên, chú tâm khắn khít vào đề mục hơn;
đôi khi cần phải liên tiếp ghi nhận nhiều đề mục
hơn. Khi phải ghi nhận nhiều đề mục khác nhau
liên tiếp như vậy tâm sẽ hoạt động hơn và tinh tấn
sẽ gia tăng để quân bình với tâm định.
(Theo Hòa Thượng Mahasi thì lúc ghi nhận nhiều đề mục ta có thể ghi nhận cảm giác ngồi và cảm giác nhiều nơi trong cơ thể. Ví dụ:
- chú tâm vào sự ngồi (hay toàn thể cảm giác ở lưng)
- chú tâm vào cảm giác ở mông tiếp xúc với sàn nhà;
- chú tâm vào sự ngồi (hay toàn thể cảm giác ở lưng)
- chú tâm vào cảm giác ở chân tiếp xúc với sàn nhà
- lại chú tâm vào sự ngồi (hay toàn thể cảm giác ở lưng)
- chú tâm vào cảm giác ở đầu gối
- lại chú tâm vào sự ngồi hay toàn thể cảm giác ở lưng
- chú tâm vào cảm giác ở vai
- lại chú tâm vào sự ngồi hay toàn thể cảm giác ở lưng
- chú tâm vào cảm giác hai tay đụng nhau lại chú tâm vào sự ngồi hay toàn thể cảm giác ở lưng
Cứ như thế chú tâm hết bên phải lại sang bên trái, chỗ nào không có cảm giác thì cũng chú tâm một lát, sau đó, lại chú tâm đến điểm khác. Chỗ chú tâm chỉ bằng cở đồng xu.)
Như vậy, tinh tấn và định phải được
quân bình để việc hành thiền được tốt đẹp và tỉnh
giác hay ý thức sáng suốt phát triển.
Ðôi khi đang có sự định tâm tốt đẹp
bỗng nhiên định tâm sút giảm đột ngột. Tại
sao vậy? Bởi vì chúng ta đã thêm nhiều tinh tấn quá. Có
một điều mà thiền sinh thường gặp phải là khi thấy
tâm định tốt đẹp liền cố gắng tinh tấn thêm lên
nghĩ rằng làm như thế định tâm càng tốt đẹp hơn và
tuệ giác càng phát sinh nhiều hơn. Nhưng vì thêm
quá nhiều tinh tấn nên tinh tấn và định thiếu quân
bình do đó kết quả đã đi ngược lại những gì ta
muốn.
Ðôi khi đang đang hành thiền và định
tâm đang tốt đẹp. Mặc dầu định tâm đang tốt
đẹp, nhưng bỗng nhiên thiền sinh cảm thấy buồn ngủ
và gục. Tại sao vậy? Bởi vì có quá nhiều
tâm định nên tinh tấn và định thiếu quân bình.
Nếu có quá nhiều định tâm cần phải làm cho tâm định
giảm xuống và tăng cường tinh tấn bằng cách lần lược
chú tâm vào nhiều đề mục (như đã nói ở phần trên).
Như vậy hành thiền không phải dễ - tôi
không muốn làm nản lòng các bạn - nhưng việc hành thiền
thật ra không phải dễ dàng. Việc hành thiền rất
vi tế. Chỉ cần các tâm sở không cân bằng một
ít thôi cũng có thể hủy hoại việc tập trung tâm ý mà
bạn đã cố gắng thiết lập.
Tóm lại, năm tâm sở: tín, tấn, niệm,
định, huệ phải hoạt động cùng lúc và hài hòa.
Ngũ căn chẳng khác nào các bộ phận trong một một bộ
máy. Mỗi bộ phận phải hoạt động một cách
thích nghi, đúng đắn và hài hòa với các bộ phận kia.
Nếu một bộ phận nào không hoạt động đúng đắn,
thích nghi thì toàn thể bộ máy sẽ bị ảnh hưởng.
Cũng vậy, các yếu tố trong ngũ quyền: tín, tấn, niệm
định, huệ cần phải hoạt động nhịp nhàng hài hòa;
nếu một yếu tố nào không hoạt động đúng đắn thích
nghi thì tất cả các yếu tố kia đều bị xáo trộn, mất
thăng bằng và việc hành thiền sẽ không đạt kết quả
tốt đẹp. Bởi thế, mỗi yếu tố trong ngũ quyền
cần phải họat động đúng đắn và hài hòa với các
yếu tố kia.
Bây giờ chúng ta phải xét đến giá trị
của chánh niệm. Chánh niệm là một tâm sở giúp
cho sự hài hòa. Chánh niệm đã giúp cho tinh tấn
không trở nên quá trội hay quá sụt giảm. Chánh
niệm giúp cho định tâm không quá nhiều hay quá ít v.v...
Như vậy, chánh niệm là một yếu tố điều hòa các yếu
tố kia trong việc hành thiền. Ðó là lý do tại sao
ta nói rằng chánh niệm luôn luôn cần thiết. Không
bao giờ có chuyện chánh niệm quá trội. Chánh niệm
cần thiết trong mọi nơi giống như muối cần cho thức
ăn, hoặc như một vị thủ tướng tài ba làm tất cả
mọi việc nhà vua giao phó. Chánh niệm là một yếu
tố quan trọng trong năm yếu tố, nhưng mỗi yếu tố phải
hoạt động một cách quân bình và hài hòa với các yếu
tố kia.
Khi năm yếu tố hoạt động một cách hài
hòa thì thiền sinh có tỉnh giác và khi có tỉnh giác thì
thiền sinh sẽ chế ngự được tham ái và ưu phiền (sân
hận). Ðó là kết quả mà thiền sinh đạt được
từ sự tỉnh giác trong việc hành thiền. Nhiều bản
kinh dịch là: sau khi đã chế ngự tham ái và ưu
phiền (sân hận) thay vì để chế ngự tham ái và
ưu phiền (sân hận). Dịch như vậy không đúng. Mục
đích của hành thiền là để chế ngự tham ái và ưu
phiền (sân hận). Nếu đã chế ngự tham ái và ưu
phiền (sân hận) rồi thì đâu cần hành thiền nữa.
Như vậy nên dịch là: để chế ngự hay chế ngự
(cùng lúc) tham ái và ưu phiền (sân hận) chứ không nên
dịch là sau khi đã chế ngự tham ái và ưu phiền
(sân hận). Ðiều này có nghĩa là thiền sinh chế
ngự tham ái và ưu phiền trong khi hành Thiền Minh Sát.
Tôi muốn các bạn hãy lưu ý điều này. (ở đây cần có
một sự giải thích liên quan đến cấu trúc văn phạm
pàli, nhưng như thế ôm đồm quá nên tôi đành bỏ qua
vậy).
Loại trừ tham ái và ưu phiền trong cõi
đời có nghĩa là loại trừ tham ái và ưu phiền sân hận
khỏi đối tượng mà thiền sinh đang quán sát. Trên
cõi đời ở đây là trên thân, thọ, tâm, pháp liên quan
đến đối tượng quán sát. Khi nhìn thấy một đối
tượng chúng ta có thể bị dính mắc vào đối tượng
này. Nếu chúng ta cho đối tượng đó là đẹp, là
tốt thì chúng ta có sẽ bị dính mắc vào nó, và nếu
chúng ta cho đối tượng đó là xấu hay đáng ghét chúng
ta có thể giận, ghét ... đối tượng đó. Như vậy,
phiền não có thể xâm nhập tâm chúng ta khi chúng ta thấy,
nghe ... điều gì.
Ðể ngăn ngừa phiền não phát sinh dưới
hình thức tham ái và ưu phiền, chúng ta cần có một sự
bảo vệ, và sự bảo vệ đó là chánh niệm. Khi
chúng ta chánh niệm, phiền não không có cơ hội xâm nhập
vào tâm chúng ta. Khi chúng ta chánh niệm, khi chúng
ta tỉnh giác và khi chúng ta thấy đối tượng một cách
rõ ràng, chúng ta sẽ biết rằng đối tượng đến và
đi, biết chúng là vô thường. Biết chúng vô thường
nên chúng ta không dính mắc vào chúng. Như vậy,
chúng ta có thể tránh được tham ái hay dính mắc và ưu
phiền hay sân hận trên đối tượng nhờ hành Thiền Minh
Sát. Dầu chúng ta dùng chữ chế ngự, loại trừ
hay bất cứ một từ nào khác thật ra đều có nghĩa là
chúng ta đang tránh hay ngăn chặn phiền não phát sanh, chứ
không phải phiền não đã đến rồi sau đó chúng ta mới
chế ngự nó hoặc loại trừ nó. Nghĩa thật sự
của loại trừ hay chế ngự là ngăn ngừa tham ái và ưu
phiền phát khởi trong tâm ta. Tuy nhiên, nếu tham ái
và ưu phiền khởi sinh thì chúng ta cũng lấy chúng làm đề
mục chánh niệm để loại trừ chúng.
Khi nói đến sự giác ngộ chúng ta thường
nói: "vào lúc giác ngộ" phiền não bị loại trừ.
Nhưng phiền não nào được loại trừ vào lúc ấy?
Phiền não quá khứ, phiền não hiện tại hay phiền não
tương lai? Phiền não quá khứ đã trôi qua, nên
chúng ta chẳng cần phải loại trừ; phiền não tương lai
chưa đến, nên chúng ta cũng không thể làm gì được
chúng. Còn phiền não hiện tại thì sao? Khi phiền
não hiện diện thì không thể có giác ngộ. Giác
ngộ là một tâm sở thiện và phiền não là một tâm sở
bất thiện. Tâm sở thiện và tâm sở bất thiện
không thể cùng hiện diện. Như vậy, phiền não
được loại trừ vào lúc giác ngộ không phải phiền não
quá khứ, không phải phiền não hiện tại cũng không phải
phiền não tương lai. Vậy phiền não nào được
loại trừ đây?
Thật ra, những gì được loại trừ vào
lúc giác ngộ không được gọi là phiền não hay Kilesa,
theo tiếng Pàli. Chúng được gọi là
tiềm năng (Anusaya), có nghĩa là khả năng khởi
sinh. Cái mà đạo tâm loại trừ là tiềm năng hay
"khả năng phát sinh phiền não" này. Khi một
vật gì luôn luôn ở với ta nói ta có vật đó.
Chẳng hạn về việc hút thuốc. Giả sử bạn là người
hút thuốc, nhưng ngay giờ phút này bạn không hút.
Thế nhưng khi tôi hỏi: "Anh có hút thuốc không?"
Bạn trả lời: "Tôi có hút thuốc". Bởi vì
bạn đã hút thuốc trong quá khứ và bạn sẽ hút trong
tương lai, hiện tại bạn chưa bỏ thuốc. Bởi thế,
mặc dầu hiện tại bạn không hút thuốc, bạn vẫn trả
lời: "Tôi hút thuốc". Cũng vậy, ngay lúc
hiện tại đây, hy vọng tôi và các bạn không có phiền
não trong tâm. Nhưng sau khi nghe Pháp xong, bạn đi ra
ngoài và đạp phải vật nhọn hay bị ai xô đẩy bạn sẽ
nỗi giận. Và như vậy là phiền não đã phát sinh.
Phiền não phát sinh khi có điều kiện. Bởi thế,
ta nói ta có phiền não. Tôi có phiền não, bạn có phiền
não. Ngay lúc hiện tại đây tôi và bạn không có
phiền não, nhưng tiềm năng phát sinh phiền não vẫn còn
trong tôi và bạn. Tiềm năng hay khả năng phát sinh
phiền não này là cái mà Ðạo tâm loại trừ vào lúc
giác ngộ. Thật ra, chẳng có phiền não nào được
loại trừ vào lúc giác ngộ. Lúc giác ngộ, Ðạo
tâm chỉ loại trừ được "khả năng phát sinh phiền
não" mà thôi. Sở dĩ phiền não có thể phát
sinh bởi vì còn có phiền não (nếu không còn phiền não
thì đâu còn vấn đề phiền não phát sinh nữa.)
Bởi thế, khi nói chế ngự hay loại trừ tham ái và ưu
phiền (sân hận) có nghĩa là tránh hay ngăn ngừa phiền
não phát sinh. Nhưng làm thế nào để ngăn ngừa
phiền não phát sinh? Câu trả lời là: Phải hành
Thiền Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát, chúng ta cố
gắng tinh tấn, chúng ta quán sát chánh niệm, chúng ta định
tâm và thấy sự vật một cách chính xác và rõ ràng.
Khi chúng ta thấy sự vật một cách chính xác rõ ràng thì
phiền não không có cơ hội đi vào tâm chúng ta.
Bằng cách này, Thiền Minh Sát loại trừ phiền não.
Sự loại trừ hay chế ngự phiền não này chỉ là sát na
loại trừ - loại trừ bằng cách thay thế. ở sát
na này phiền não được loại trừ, nhưng ở sát na kế
tiếp phiền não có thể đến. Ðây là một sự
loại trừ rất ngắn ngủi. Ðược gọi là loại
trừ bằng cách thay thế. Ðiều này có nghĩa là bạn đã
loại trừ tâm sở bất thiện bằng cách: dùng tâm sở
thiện để thay thế cho tâm sở bất thiện. Bạn đã
đặt tâm sở thiện vào chỗ tâm sở bất thiện khiến
cho tâm sở bất thiện không có cơ hội khởi sinh.
Bởi thế, được gọi là loại trừ bằng cách thay thế.
Sự loại trừ nay chỉ kéo dài trong một sát na. Sát
na này phiền não bị loại trừ, nhưng sát na sau phiền
não có thể khởi sinh trở lại.
Vào sát na có minh sát, tham ái và ưu phiền
(sân hận) được loại trừ bằng cách này. Khi bạn
ra khỏi Thiền Minh Sát và bạn gặp một vài điều kiện
giúp cho phiền não khởi sinh, phiền não sẽ sinh khởi trở
lại.
Còn một loại loại trừ khác là tạm
thời loại trừ. Ðó là loại trừ bằng cách đẩy
đi nơi khác. Khi bạn đẩy một vật gì đi nơi khác, vật
ấy sẽ ở chỗ mới một thời gian, không trở lại chỗ
cũ ngay tức khắc. Chẳng hạn như bèo trên mặt
nước. Khi bạn đẩy bèo đi nơi khác thì bèo không trở
lại chỗ củ ngay mà sẽ ở nơi mới một thời gian, sau
đó, bèo sẽ từ từ trở về chỗ cũ. Sự loại
trừ hay từ bỏ này được gọi là "tạm thời loại
trừ", hay "tạm thời từ bỏ" hoặc loại trừ
bằng cách đẩy đi nơi khác. Sự loại trừ này đạt
được qua cách hành thiền vắng lặng và đạt được
các tầng thiền. Khi một người đạt được các
tầng thiền định, người ấy sẽ loại trừ được
phiền não trong một thời gian. Có thể suốt ngày
phiền não không đến với họ, có thể trong cả tuần
hay cả tháng phiền não không đến. Nhưng sự loại
trừ này cũng chỉ là tạm thời vì sau đó phiền não lại
đến với họ.
Loại trừ thứ ba được gọi là hoàn
toàn loại trừ. Chữ Pàli gọi hoàn toàn loại
trừ là samuccheda có nghĩa là cắt đứt. Loại
trừ bằng cách cắt đứt. Giống như cắt đứt hết rễ
cây khiến cây không mọc lại được. Như vậy,
loại trừ hoàn toàn hay loại trừ một lần tất cả được
gọi là loại trừ bằng cách cắt đứt và sự loại trừ
hoàn toàn bằng cách cắt đứt này hoàn thành vào lúc
giác ngộ. Những phiền não được loại trừ vào
sát na giác ngộ không bao giờ trở lại với người này
nữa.
Một vị A La Hán đã hoàn toàn loại trừ
tất cả mọi phiền não. Ngài không còn tham ái, sân
hận, không kiêu mạn, không ganh tị và không còn các loại
phiền não khác. Ngay cả khi bị trêu chọc các Ngài
cũng không nổi giận. Khi thấy một vật dầu cho
hấp dẫn đến đâu, đẹp đẽ đến đến các Ngài cũng
không mảy may khởi lên một chút tham ái, dính mắc.
Các Ngài đã loại trừ phiền não bằng cách cắt đứt
hoàn toàn.
Tôi đã nói nhiều về loại loại trừ
thứ nhất: sát na loại trừ, bây giờ chúng ta tìm hiểu
sâu hơn về loại loại trừ thứ hai: tạm thời loại
trừ.
Một khi bạn đã hành thiền tốt đẹp,
bạn có thể loại trừ tham ái và ưu phiền trên đối
tượng bạn đang quán sát thì bạn cũng có thể loại trừ
tham ái và ưu phiền trên đối tuợng bạn không quan sát.
Ví dụ: Bạn đang ngồi xếp bằng, lưng giữ thẳng hai
tay chồng lên nhau, và chú tâm chánh niệm vào chuyển động
của bụng. Lúc bấy giờ chuyển động của bụng
là đề mục bạn đang quán sát, và cảm giác hai tay đang
để chồng lên nhau, cảm giác mông đụng vào sàn nhà ...
là những đề mục bạn không quán sát. Khi phiền
não trên đối tượng chuyển động ở bụng được loại
trừ thì phiền não trên đối tượng cảm giác ở tay ở
mông cũng được loại trừ)
Nếu bạn thực hành Thiền Minh Sát một
cách tốt đẹp bạn sẽ có được hai loại loại trừ:
Bạn kinh nghiệm được sự loại trừ tham ái và ưu phiền
trên đối tượng đang quán sát; đó là sát na loại trừ.
Và bạn cũng ngăn ngừa phiền não hay tham ái và ưu phiền
khởi sinh trên những đối tượng không được quán sát.
Ðó là tạm thời loại trừ.
Thông thường, khi mắt, tai, mũi, lưỡi
... của ta tiếp xúc với các đối tượng liên hệ:
hình sắc, âm thanh, mùi, vị ... thì tham ái và sân
hận khởi lên trong tâm ta. Ðiều này thường xảy
ra đối với phần lớn mọi người. Nếu không thực
hành chánh niệm trên các đối tượng đó thì chúng ta sẽ
bị dính mắc hay ghét bỏ đối tượng ấy. Bởi
vậy, hãy thận trọng ghi nhận chánh niệm mỗi khi các
căn tiếp xúc với các trần.
Thiền Minh Sát chỉ có thể thành tựu hai
loại loại trừ đầu tiên, đó là sát na loại trừ và
tạm thời loại trừ. Nhưng Thiền Minh Sát không thể
lọai trừ được loại loại trừ thứ ba là loại trừ
hoàn toàn. Sự loại trừ hoàn toàn chỉ có thể đạt
được bởi đạo tâm hay vào lúc giác ngộ.
Trên cõi đời
Khi Ðức Phật nói: Tỳ Khưu ... loại
trừ Tham ái và ưu phiền trên cõi đời thì Ngài muốn
nói Tỳ khưu ... loại trừ tham ái và ưu phiền trên
đối tượng mà tỳ khưu đang quán sát. Chữ trên
cõi đời có nghĩa là trên đối tượng đang quán sát.
Chẳng hạn như trong câu: Tỳ khưu quán sát thân trong
thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm, loại bỏ mọi
tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi đời.
thì chữ trong cõi đời ở đây có nghĩa
là trong thân.
Tham ái và ưu phiền
Tham ái ở đây có nghĩa là tham lam dính
mắc, luyến ái, tham dục và những tâm sở tương đương
khác. Ưu phiền ở đây không phải chỉ có nghĩa là
ưu phiền thôi mà bao gồm cả sân hận, ghét bỏ, thù
hận, xuống tinh thần, lo âu phiền muộn ... Có ba
gốc rễ bất thiện là Tham, Sân, Si. Tham và Sân đã được
nói đến ở đây. Tham ái (lobha) hay dính mắc, là
gốc rễ bất thiện đầu tiên, Ưu phiền (dosa) hay sân
hận là gốc rễ bất thiện thứ hai. Như vậy, khi
nói đến tham ái là nói đến tất cả các hình thức của
lobha. và Ưu phiền là nói đến mọi hình thức của
Dosa. Si mê hay Moha không được nói đế ở đây vì
moha rất khó ngăn ngừa hay loại trừ. Như vậy, câu
trên phải hiểu như vầy:
Tỳ khưu thực hành thực hành việc quán sát bằng cách nỗ lực tinh tấn, chú tâm chánh niệm, đạt tâm định và ý thức rõ ràng sáng suốt, và ngay lúc có tinh tấn, chánh niệm, định tâm và tỉnh giác ấy đã (đồng thời) ngăn ngừa hay loại trừ được tham ái và ưu phiền phát sinh.
Ðối với các đối tượng của thọ, tâm
và pháp cũng vậy (Chú giải cho rằng: chế ngự hay loại
trừ tham ái và ưu phiền có nghĩa là chế ngự tất cả
năm chướng ngại, bởi vì khi hai yếu tố mạnh mẽ nhất
trong năm chướng ngại là tham sân đã được đề cập
đến thì những chướng ngại còn lại cũng đưọc đề
cập đến.)
Bạn đã biết bốn căn bản hay bốn nền
tảng của sự thiết lập chánh niệm. Sở dĩ có
bốn vì có bốn loại đối tượng:
1. Quán sát thân hay niệm thân: Ðôi
lúc thân không có nghĩa là toàn thể cơ thể vật chất
mà là một nhóm yếu tố hay thành phần của vật chất.
Hơi thở cũng được gọi là thân. Những thành phần
khác của thân cũng được gọi là thân ... Chữ
thân ở đây phải hiểu là tất cả những gì liên hệ
với thân.
2. Quán sát thọ hay niệm thọ. Thọ
là một tâm sở. Bây giờ ta đau ở thân và ta kinh nghiệm
được sự đau vật chất này bằng tâm của ta.
Trong tâm ta có một tâm sở gọi là thọ. Bởi vì đây là
một sự đau, nên cảm thọ đây là cảm thọ đau.
Khi đức phật nói: Tỳ Khưu quán sát thọ trên thọ có
nghĩa là quán sát trên tâm sở thọ này chứ không phải
chánh niệm trên sự đau. Trong thực hành khi đau ta
chú tâm vào sự đau và quán sát chánh niệm vào sự đau.
Nhưng thực ra, khi ghi nhận hay niệm thầm "đau, đau"
là chúng ta đã thực sự ghi nhận tâm sở thọ, và tâm
sở thọ này cảm nhận sự đau trong cơ thể ta. Cảm
thọ gồm 3 loại: Vui, khổ và vô ký.
3. Quán sát thức (thức) hay niệm thức.
Thông thường chữ citta được dịch là tâm nhưng nên
dịch là thức đúng hơn. Chữ Citta có nghĩa
là ý thức. Trong Tâm Lý Học Phật Giáo, tâm là sự
tập hợp của bốn yếu tố. Vậy cái mà ta gọi là
tâm thật ra là một tập hợp của bốn yếu tố.
Ðôi khi có sự lẫn lộn giữa hai danh từ tâm và thức.
Trước tiên hãy xem tâm là sự tập hợp của thức và
các yếu tố của tâm. Thức được định nghĩa là
sự nhận biết hay ý thức đối tượng. ý thức
hay sự nhận biết đây không phải là sự nhận biết hay
ý thức trong chánh niệm. Thức ở đây chỉ là sự
ý thức hay sự nhận biết thông thường. Chẳng hạn
như, tôi nhận biết có người nào đang đứng đó, mặc
dầu tôi đang nhìn đây. Sự nhận biết hay ý thức
như vậy gọi là thức (citta). ít ra
trong Vi Diệu Pháp cũng gọi sự nhận biết đơn thuần
này là thức. Theo nghĩa thông thường thì chữ thức
có một nghĩa rộng hơn hay hẹp hơn. Cần ghi nhận
một điểm ở đây là: Chúng ta dùng chữ thức để chỉ
cho (citta), nhưng dịch như vậy không chính xác.
Thức được định nghĩa là một yếu tố hay thành phần
của tâm, và thành phần của tâm này làm nhiệm vụ ý
thức hay nhận biết đối tượng. Chỉ khi nào có
nhận biết đối tượng thì mới có sự tiếp xúc (xúc)
với đối tượng, cảm nhận đối tượng, thích đối
tượng, không thích đối tượng v.v... Như vậy, những
tâm sở đã hỗ trợ cho thức, nhưng đồng thời cũng là
những thành phần của tâm. Như vậy, trước tiên
tâm được chia làm hai thành phần: Thức và tâm sở.
Xúc, thọ, tưởng, chú tâm, thích, không thích ...
được gọi là những tâm sở (yếu tố của tâm).
Theo vi diệu pháp thì có 52 tâm sở và 52 tâm sở này được
chia làm ba nhóm: thọ, tưởng và hành. Như vậy, khi
ta thêm thức vào nhóm thọ, tưởng hành này thì ta sẽ có
bốn thành phần của tâm: Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
Mỗi khi tâm nhận đối tượng thì bốn thành phần này
cùng sinh khởi một lúc.
Ðức Phật với trí tuệ cao siêu có thể
phân tích và định danh từng tâm sở này một cách tinh
tế rõ ràng khi chúng đồng thời nhận đối tượng.
Ðây là một điều thật kỳ diệu.
Khi đang hành thiền và có sự lo âu phát
sinh ta ghi nhận: "lo âu, lo âu", có nghĩa là lúc
bấy giờ ta có một thức đi kèm với lo âu. Ðây
là quán sát trên "thức". Khi ta ghi nhận:
"Giận, giận" thì ta cũng đang quán sát trên thức.
4. Quán sát Pháp trên Pháp: Dhamma
(Pháp) là một chữ Pàli rất khó dịch hay khó có thể
dịch một cách chính xác. Tùy theo từng trường
hợp, chữ Dhamma được dùng với một nghĩa khác.
Ta không thể dùng một chữ cố định nào đó để dịch
chữ Dhamma vì làm như thế sẽ sai. Dhamma được
dùng trong kinh Ðại Niệm Xứ chỉ đơn giản để chỉ:
Năm chướng ngại, năm nhóm tập hợp, sáu căn, sáu trần,
bảy pháp giác ngộ, bốn chân lý cao thượng. Chữ
Pháp dùng trong niệm pháp chỉ để chỉ các pháp nêu trên
thôi. Như vậy, nên để nguyên chữ Dhamma, đừng
dịch, và hãy hiểu chữ Dhamma tùy theo từng trường hợp,
từng đoạn kinh. Phần lớn dịch Dhamma là 'đối
tượng thuộc về tâm' hay 'đối tượng của tâm'.
Nhưng cả hai lối dịch này đều không thỏa đáng.
Bây giờ chúng ta hãy học cách quán sát
pháp trên pháp. Nếu chú tâm vào sự sân hận là
bạn đã quán sát pháp trên pháp. ở đây, một lần
nữa tôi nhắc lại: Pháp không có nghĩa là giáo pháp hay
gì khác. Thấy cái gì và bạn chú tâm chánh niệm
vào cái đó là bạn đang quán sát pháp trên pháp.
Như vậy đề mục pháp để quán sát rất rộng bao gồm:
Năm chướng ngại, năm nhóm tập hợp, sáu căn, sáu trần,
bảy pháp giác ngộ, bốn chân lý cao thượng. Nếu
chúng ta dịch Dhamma là đối tượng thuộc về tâm có
nghĩa là lấy tâm làm đối tượng để quán sát thì
không đúng lắm vì có nhiều đối tượng không phải là
tâm (như các trần: hình sắc, mùi, vị ...). Nếu
dịch là "đối tượng của tâm" có nghĩa là bao
gồm tất cả mọi đối tượng, đối tượng nào cũng
được. Cả thân lẫn tâm đều là đối tượng.
Vậy thì niệm gì cũng có thể gọi là niệm pháp được
cả. Vì không thể nào dịch chữ Dhamma cho chính xác
được, thế nên hãy để yên chữ Pàli, đừng dịch.
Tôi đã từng nói với các bạn rằng
không phải thực hành bốn căn bản chánh niệm theo thứ
tự ghi trong sách, cũng không cố gắng tìm xem ta đang quán
sát lãnh vực nào của chánh niệm: quán sát thân, quán
sát thọ, quán sát tâm hay quán sát pháp. Nếu cố
gắng tìm xem ta đang chánh niệm loại nào đây thì sẽ bị
vọng tâm. Là một thiền sinh, bạn phải quán sát
chi nhận đề mục trong hiện tại; không cần tìm hiểu
xem đề mục thuộc loại nào: thân, thọ, tâm hay pháp gì
cả. Dầu đề mục gì đi nữa, bổn phận của bạn
là chánh niệm ghi nhận để khỏi tham đắm, dính mắc
hoặc ưu phiền sân hận trên đối tượng mà bạn đang
quán sát này.
Ðể khỏi bị tham ái và ưu phiền (sân
hận) bạn phải tinh tấn chú tâm chánh niệm. Bạn
không có đủ thì giờ để tìm xem đây là tâm là pháp
hay đây là cái gì khác. Khi hành Thiền Minh Sát bạn
phải thực hành trên tất cả bốn căn bản chánh niệm
mỗi một khi chúng diễn ra. Bao lâu bạn chánh niệm
trên đối tượng trong hiện tại là bạn đã hành thiền
đúng, và hành thiền tốt đẹp. Hành thiền không
tốt là khi bạn bị tư tưởng lôi kéo đi, bạn quên mất
việc hành thiền trong vài giây hay trong vài phút.
Nhưng bao lâu bạn còn chánh niệm là bạn đã làm đúng
và việc hành thiền đang tiến triển tốt đẹp.
Có thiền sinh nghĩ rằng nếu họ không
định tâm được trên đề mục chính là họ không hành
thiền. Ðôi khi họ nói: "ô! Tôi đã phí thì
giờ để ghi nhận tâm đi đây đi đó, và tôi không có
nhiều thì giờ để chú tâm với đề mục chính."
Dầu bạn chú tâm vào đề mục chính hay đề mục phụ,
điều đó không quan trọng; bao lâu bạn còn chú tâm vào
chúng được là bạn đã hành thiền đúng.
Ðiều quan trọng đầu tiên trong việc
hành Thiền Minh Sát là chú tâm chánh niệm vào đề mục
đang xảy ra trong hiện tại. Ðôi khi bạn bị thất
niệm, bạn hãy lấy sự thất niệm này làm đề mục và
ghi nhận "quên, quên" hay "thất niệm, thất
niệm" rồi trở về với đề mục chính. Bạn
phải luôn luôn chánh niệm trong mọi lúc, trong mọi nơi,
và nếu bạn có thể giữ chánh niệm liên tục, tâm khắn
khít trên đề mục thì bạn sẽ tiến bộ nhanh chóng và
sẽ bắt đầu thấy được bản chất của sự vật; có
nghĩa là bạn sẽ thấy được đề mục sinh và diệt.
Khi thấy được sự vật sinh diệt bạn cũng thấy được
sự vật là vô thường. Khi thấy được sự vật
vô thường bạn cũng thấy được bản chất đau khổ của
sự vật và bản chất vô ngã hay thấy rằng bạn không
thể điều khiển hay kiểm soát chúng được; chúng sinh
và diệt một cách tự do theo ý muốn của chúng, ta không
làm chủ được chúng. Khi thấy được như thế là
bạn đã thấy được ba bản chất tổng quát của mọi
pháp hữu vi, pháp có điều kiện. Thấy bản chất
vô thường, khổ, vô ngã của sự vật là mục tiêu, hay
cốt tủy của Thiền Minh Sát. Nếu bạn hành Thiền
Minh Sát bạn phải thấy ba đặc tính này bởi vì chữ
minh sát (vipassanà) có nghĩa là thấy bằng nhiều cách.
Và thấy bằng nhiều cách có nghĩa là thấy sự vật dưới
ánh sáng của Vô thường, dưới ánh sáng của Khổ và
dưới ánh sáng của Vô ngã. Ðiều quan trọng và
mục tiêu của việc hành Thiền Minh Sát là thấy ba đặc
tính này, và để thấy ba đặc tính này chúng ta phải
quán sát, theo dõi đề mục trong hiện tại. Muốn
chú tâm vào đề mục hiện tại bạn cần phải tinh tấn.
Không có tinh tấn không thể đạt được kết quả tốt
đẹp. Ðó là lý do tại sao Ðức Phật dạy: Phải
có tinh tấn, ý thức sáng suốt và chánh niệm trong khi
hành thiền minh sát. Khi chúng ta có thể thực hành
trọn vẹn, đầy đủ những điều kiện này - tinh tấn,
tỉnh giác, chánh niệm - và tâm định thì chúng ta có thể
chế ngự được tham ái và ưu phiền trên đối tượng
chúng ta đang quán sát.
Ðây là phần tóm lược kinh Ðại Niệm
Xứ, bài pháp lớn về căn bản của chánh niệm.
Nếu bạn nắm vững phần tóm lược này tôi tin rằng bạn
sẽ hiểu rõ thế nào là Thiền Minh Sát và hiểu rõ cách
hành trì. Có nhiều chỉ dẫn chi tiết khác cho việc
hành thiền, tôi hy vọng các bạn đã quen thuộc với
những chỉ dẫn này.
Cầu mong các bạn thực hành theo những
lời chỉ dẫn này một cách tinh tấn, chánh niệm, tỉnh
giác để có thể chế ngự mọi tham ái và ưu phiền sân
hận trên cõi đời.
Hòa thượng Silananda giảng
Tỳ kheo Khánh Hỷ soạn dịch
Tỳ kheo Khánh Hỷ soạn dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét